Nuôi trồng thủy sản là ngành đem lại thu nhập chính cho người dân địa phương tại các tỉnh đồng bằng sông cửu long. Tuy nhiên tình trạng xâm nhập mặn hiện đang là mối lo đáng ngại cho bà con.
Tình hình xâm nhập mặn kéo dài sâu trên diện rộng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và thủy sản. Bởi đây là thời điểm ẩn chứa nhiều rủi ro về dịch bện. Dẫn đến tình trạng bà con mất trắng vụ nuôi, thất thoát tiền bạc. Vấn đề được đặt ra là liệu có giải pháp nào giúp ứng phó với tình hình xâm nhập mặn hay không? Theo đó, các chuyên gia đã đề xuất một số giải pháp nhằm chủ động ứng phó cũng như giảm thiểu những thiệt hại gây ra đối với ngành nông nghiệp của khu vực ĐBSCL nói chung và lĩnh vực thủy sản nói riêng. Cụ thể giải pháp cho từng đối tượng ra sao, như thế nao, Mpu đã tổng hợp được. Mời bạn cùng xem qua bài viết dưới đây có kế hoạch ứng phó kịp thời.
Đối với nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh
Người nuôi cần gia cố bờ, cống để tránh hiện tượng rò rỉ. Thực hiện các biện pháp an toàn sinh học trước khi thả tôm và trong quá trình nuôi bằng cách sử dụng chế phẩm sinh học xử lý nước, để đảm bảo sức khỏe tôm nuôi và giữ môi trường bền vững, hạn chế mất nước và thay nước khi môi trường nuôi ổn định.
Chọn tôm giống có nguồn gốc rõ ràng, được kiểm dịch và có chất lượng tốt. Và trong quá trình thả con giống thương phẩm cần thả với mật độ hợp lý.
Chỉ thả giống khi nhiệt độ nước dưới 30 độ C (sáng sớm hoặc chiều mát). Thả nuôi với mật độ hợp lý. Đối với tôm thẻ dưới 80 con/m2, tôm sú 10 – 15 con/m2. Duy trì độ mặn 10 – 25 phần ngàn, O2 >3 mg/l, pH 7,8 – 8,5, độ kiềm từ 80 – 150 mg/l;…
Cung cấp lượng thức ăn hợp lý theo kích cỡ và mật độ. Giảm 15 – 30% lượng thức ăn trong những ngày nắng nóng. Định kỳ 15 ngày/lần bổ sung Vitamin C, các khoáng vi lượng, men tiêu hóa trộn vào thức ăn cho tôm. Bà con có thể tham khảo sử dụng thêm chế phẩm sinh học có lợi.
Duy trì mực nước tối thiểu 1,3 – 1,5m. Đồng thời chạy quạt nước để tránh hiện tượng phân tầng nhiệt độ, tăng cường oxy và giảm thiểu thiếu oxy cục bộ.
Giải pháp trong nuôi tôm quảng canh cải tiến
Người nuôi nên tập trung gia cố bờ bao, cống để tăng khả năng giữ nước. Chủ động bơm trữ nước vào mương và ao đầm nuôi khi mực nước cao ở các tuyến kênh. Thả giống với mật độ phù hợp và cần được ương đạt kích thước 1,5 – 2cm (nuôi chuyên tôm, mật độ thấp hơn 10 con/m2; nuôi kết hợp cua, cá… mật độ 1 – 3 con/m2).
Canh tác tôm – lúa
Ruộng nuôi không nên rộng trên 1 ha. Diện tích mương từ 25 – 40% so với ruộng lúa. Mương bao rộng 2,5 – 3,5m, sâu 0,8 – 1,2m. Bờ mương rộng 3 – 4m, phải được dầm nén thật cẩn thận, tránh rò rỉ. Mỗi ruộng nên có ao chứa, ao lắng, để cung cấp nước cho ruộng nuôi vào những lúc cần thiết. Giống thả cần được ương đạt kích cỡ từ 1,5 – 2,0cm, với mật độ từ 2 – 3 con/m2/vụ.
Bà con cần chủ động lấy nước ngọt vào ao chứa để dự trữ. Sau đó có kế hoạch thả giống phù hợp. kKông nên thả giống vào thời điểm khô hạn và bị xâm nhập mặn.
Đối với môi trường ao nuôi thì cần có sự quản lý chặt chẽ. Nhất là quản lý thức ăn. Trong khẩu phần ăn cần bổ sung thêm các vitamin, khoáng chất,… để tăng cường sức đề kháng. Tăng cường sử dụng chế phẩm vi sinh nhằm cải thiện chất lượng nước, góp phần hạn chế việc thay nước thường xuyên.
Kỹ thuật ứng phó cho đối tượng nuôi nước ngọt
Chủ động lấy nước ngọt vào ao chứa để dự trữ. Đồng thời giám sát, chỉ đạo và hướng dẫn người nuôi có kế hoạch thả giống phù hợp. Không nên thả giống vào thời điểm khô hạn và bị xâm nhập mặn.
Theo dõi, quản lý môi trường ao nuôi chặt chẽ, đặc biệt là quản lý thức ăn. Trong khẩu phần ăn cần bổ sung thêm các Vitamin, khoáng chất… để tăng cường sức đề kháng. Tăng cường sử dụng chế phẩm vi sinh nhằm cải thiện chất lượng nước, góp phần hạn chế việc thay nước thường xuyên.
Đối với cá tra và cá lăng nha, khi độ mặn tăng cao trên 8 phần ngàn và kéo dài 5 – 7 ngày, thì có kế hoạch tiến hành di dời cá nuôi đến vùng nuôi an toàn. Đối với cá rô phi và điêu hồng nuôi bè, khi độ mặn trên 30/00 cần di dời bè vào hệ thống các ao đất nhằm giảm thiệt hại có thể xảy ra.
Đối với mọi loài thủy sản, cần chủ động thu hoạch nếu thủy sản nuôi đạt kích thước thương phẩm ngay khi thiếu nước, hạn hán và xâm nhập mặn xảy ra.
Đối với nghêu nuôi thương phẩm
Chỉ nuôi trong vùng có điều kiện môi trường thích hợp cho sinh trưởng và phát triển. Chẳng hạn gần cửa sông, bằng phẳng, độ dốc thấp và ít sóng gió. Độ mặn thích hợp từ 15 – 25 phần ngàn… Khuyến cáo người dân không nên thả giống vào thời điểm thời tiết không thuận lợi từ tháng 1 – 3 âm lịch. Mật độ thả giống từ 180 – 200 con/m2; cỡ giống nuôi từ 400 – 600 con/kg.
Theo dõi tình hình biến động của thời tiết và môi trường nước (nhiệt độ, độ mặn…), mật độ và tình hình sức khỏe theo từng vùng, từng khu vực, nhằm sớm phát hiện các biến động bất thường để có giải pháp phù hợp như: San thưa (chỉ san thưa khi cần thiết, thực hiện khi lúc thủy triều xuống và hoàn thành trước khi phơi bãi). Tuyệt đối không thực hiện lúc bãi khô hoặc nhiệt độ cao. Di dời đến vùng an toàn hoặc thu hoạch khi đạt kích thước thương phẩm, nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra, nên thu trước tháng 01 âm lịch hàng năm.
Có biện pháp khai thông các vùng động nước để tránh hiện tượng đọng nước cục bộ, gây nhiệt độ tăng cao vào buổi trưa làm nghêu chết. Nếu phát hiện nghêu chết trên bãi, lập tức thu gom để tránh ảnh hưởng sang các cá thể còn sống.
Nguồn: Chephamsinhhoc.net