Streptomyces sc (Thaxter) Lambert và Loria (S.S. sc care) là nguyên nhân chính gây bệnh ghẻ vi khuẩn ; và bệnh là một bệnh gây hại kinh tế quan trọng, phân bố rộng rãi trong sản xuất khoai tây. Việc hạn chế biểu hiện kháng thuốc cản trở tiến độ chọn tạo giống kháng. Tuy nhiên, các giống kháng bệnh có thể là cách tốt nhất và dễ nhất để chống lại bệnh lở loét.
Lâm Đồng là vùng trồng khoai tây quanh năm với diện tích đáng kể. Tuy nhiên, hầu hết diện tích trồng khoai tây ở đây đều bị nhiễm bệnh ghẻ. Vào mùa khô (vụ mùa chính ở khu vực Lindong), lượng nước tưới không đảm bảo được, dịch bệnh này đặc biệt nghiêm trọng. Hiện nay bệnh cũng đang phát triển mạnh ở đồng bằng sông Hồng, mặc dù ở vùng này khoai tây được trồng luân canh với lúa nước (khoai tây được trồng trọt làm vụ đông). Hiện tượng này là do bào tử lưu lại lâu ngày trong đất và các vật chủ phụ khác.
Việc hạn chế biểu hiện kháng thuốc cản trở tiến độ chọn tạo giống kháng. Tuy nhiên, các giống kháng bệnh có thể là cách tốt nhất và dễ nhất để chống lại bệnh lở loét. Việt Nam chưa công bố nghiên cứu chính thức nào về căn bệnh này, đặc biệt là việc lai tạo các giống kháng ghẻ. Ngày nay, việc đánh giá các vật liệu tạo giống kháng cho ngành khoai tây Việt Nam là vấn đề cần thiết và lâu dài.
Bệnh ghẻ vi khuẩn là gì?
Tên khác: S. solani Brunch, S.subterranea f.sp.subterranea Tomlinson, Erysiphe subterranean Wallr.
Bệnh ghẻ vi khuẩn khoai tây được phát hiện lần đầu tiên ở Đức vào năm 1841 và còn được gọi là mụn khoai lang. Bệnh phân bố chủ yếu ở Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi, Nhật Bản và Trung Quốc. Gây hại nghiêm trọng cho sức khỏe con người ở những vùng lạnh và ẩm. Dịch bệnh là mục tiêu kiểm dịch thực vật ở nước ngoài của nước ta. Cây khoai tây bị nhiễm bệnh thường sinh trưởng kém, năng suất thấp hơn, chất lượng củ thấp hơn.
Triệu chứng bệnh ghẻ sao khoai tây
-Trong thời kỳ sinh trưởng và sau khi thu hoạch, bệnh ảnh hưởng đến hầu hết các bộ phận của cây. Nấm gây bệnh thường tấn công vào rễ non và củ. Vết bệnh ở rễ là những chấm nhỏ màu nâu đen, phát triển thành những quả sung nhỏ màu trắng sữa sau khi vết bệnh chuyển sang màu đen, kích thích khoảng 1-10 mm. Nhiễm nặng có thể làm cây bị bệnh với các đốm hoại tử màu nâu, thân và lá bị chết.
-Trên gốc rễ có những chấm màu nâu tía, thường xuất hiện ở các đầu nối nhau và có thể chiếm đến 1/2 bề mặt chân răng, tạo thành những vết nứt gồ ghề trên bề mặt như vết chân chim hoặc hình sao. . Ở rìa vết bệnh nổi rõ các vết nứt, bên trong có chứa các hạt màu nâu nhạt là bào tử của nấm gây bệnh.
Nguyên nhân gây bệnh ghẻ sao khoai tây
-Bệnh do nấm Spongospora subterranean (Wallr.) Lagerheim gây ra. Nấm gây bệnh thuộc họ Rau má (Plasmodiphoraceae), thuộc họ Myxomycete.
-Vi nấm gây bệnh là những loại nấm cổ có cấu trúc tế bào chất (Plasmodium). Bào tử nấm thường dính với nhau tạo thành những khối hình trứng hoặc dài không đều như giọt nước, có màu vàng nâu, kích thước 19-85 micron, trong bào tử thường chứa 1000-1500 vi bào tử. Vi bào tử có nhiều cạnh, đường kính 3,5-4,5 micron, vách ngăn mỏng và màu vàng nâu. Phạm vi nhiệt độ xâm nhập 12,5-4,5 micron, vách mỏng màu vàng nâu. Vì nhiệt độ lây nhiễm là 12,5-20 độ C, nhiệt độ thích hợp là 12,5-15 độ C, pH 4,7-7,6, lượng mưa liên tục khoảng 10 mm trong 24 giờ. Độ ẩm thích hợp để nấm hình thành bào tử che phủ là 95-100%.
Đặc điểm phát sinh, phát triển của bệnh ghẻ sao khoai tây
bệnh ghẻ khoai tây phát triển mạnh khi được trồng trên đất có nhiệt độ thấp, ẩm độ cao, thành phần cơ giới nặng, pH thấp. Nấm gây bệnh tồn tại trên củ giống và tàn dư cây bệnh dưới dạng bào tử tĩnh. Bào tử của nấm gây bệnh trong đất có thể duy trì sức sống đến sáu năm, duy trì sức sống thông qua hệ tiêu hóa, tồn tại trong phân động vật. -Các loại nấm gây hại chính trên khoai tây, cà chua. Như đã thấy ở cây khoai tây, trên cây cà chua bị nhiễm bệnh có triệu chứng sưng rễ.
Một số cây trồng khác trong họ cà chua như ớt, cà độc dược, cà tím dại, thuốc lá dại … là ký chủ phụ của nấm gây bệnh. Nấm gây bệnh cũng là vật trung gian truyền bệnh, đồng thời là vật trung gian truyền vi rút bệnh củ khoai tây (vi rút ngọn khoai tây-PMTV). Ghẻ trên củ cũng thúc đẩy sự xâm nhập của các loại nấm gây bệnh khác như Phytophthora và Fusarium. .
Giống khoai tây Trung Quốc mẫm cảm với bệnh. Giống chống bệnh gồm các giống Gabriella và Albina. Ở Ấn Độ đã lai tạo được các giống chống bệnh như CP 1742, 66 – 619/4, JHT/A – 1214, U352, ….Ngoài ra các giống CGN – 69 – 1 (Mexico/CIP), DTO – 33 (USA/CIP); Russet Burbanhk của Thổ Nhĩ Kỳ có khả năng chống bệnh tốt.
Biện pháp phòng trừ bệnh ghẻ sao khoai tây
-Trong đất có nấm gây bệnh nên rất khó phòng trừ bằng biện pháp hóa học. Biện pháp phòng trừ tốt nhất là chọn giống kháng bệnh và sử dụng giống sạch bệnh.
– Luân canh cây trồng với các họ khác nhau, đặc biệt là cây lúa nước. Không để đất bị ướt, đặc biệt là trong giai đoạn hình thành củ khoai tây. Xử lý đất bằng cách phơi khô mà không sử dụng phân động vật đã hoai mục.
– Xử lý bóng đèn ở nhiệt độ 55 độ C; hoặc sử dụng hoạt chất fentanyl hydroxit; có thể làm giảm bớt bệnh Mức độ cảm nhiễm giữa các giống khác nhau; nhưng cho đến nay, chưa có một giống nào kháng được bệnh lở loét do vi khuẩn. Sử dụng phân bón có hàm lượng lưu huỳnh cao sẽ làm giảm một phần triệu chứng lở loét trên ruộng
-Xử lý đất trước khi trồng cây mới là một cách thiết thực; để giảm bệnh ghẻ Xử lý củ bằng kháng sinh streptomycin trước khi kết hôn
Nguồn: Camnangcaytrong.com