Nhiễm khuẩn huyết do Edwardsiella là một căn bệnh khá phổ biến ở những loài cá nuôi nước ngọt. Đặc biệt là các loại cá tra, cá basa, diêu hồng, rô phi, các bống tượng, cá trê… Căn bệnh này hầu như sẽ không chừa các loài cá nước ngọt nào. Nếu cá nhiễm bệnh sẽ có thể bị chết bởi những độc tố nhiễm khuẩn rất cao. Phòng bệnh cho cá chính là cách giải quyết tốt nhất ngăn ngừa nhiễm khuẩn huyết. Vậy nguyên nhân và các phòng bệnh nhiễm khuẩn huyết do Edwardsiella như thế nào để mang lại hiệu quả, hãy cùng xem ở bài viết dưới đây nhé!
Không hộ nuôi cá nào mong muốn căn bệnh này diễn ra ở ao cá của mình. Thế nhưng, bà con cũng đừng quá lo lắng, chỉ cần làm đúng theo hướng dẫn thì đàn cá trong ao cũng sẽ được an toàn.
Nguyên nhân gây bệnh nhiễm khuẩn huyết do Edwardsiella
- Tác nhân gây bệnh: Bệnh do Edwards taxa gây ra.
- Đối tượng nhiễm bệnh: Các loài cá nước ngọt: cá tra, cá ba sa, cá trê, cá điêu hồng (điêu hồng), rô phi, cá bống tượng, cá diếc dễ nhiễm bệnh hơn.
Khi nước ao bị ô nhiễm trong môi trường khắc nghiệt của ao nuôi, dịch bệnh thường xảy ra. Trong một số trường hợp, việc nuôi cá với mật độ quá dày cũng là điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh bùng phát. Nhiệt độ thích hợp cho bệnh phát triển là khoảng 30 ° C.
Dấu hiệu bệnh lý
Khi mắc bệnh cá có một số dấu hiệu như: trên da xuất hiện những vết thương nhỏ đường kính khoảng 3-5 mm (mặt sau). Những vết thương này sẽ phát triển thành cơ, u rỗng bên trong da, sắc tố biến mất. Cá bị bệnh sẽ mất chức năng vận động do vây đuôi bị rách.
Dưới biểu bì, cơ có thể có vết thương, khi ấn vào cơ sẽ phát ra khí khó chịu. Những vết thương này sẽ làm hoại tử các cơ xung quanh. Đối với bệnh đốm trắng ở cá trê, vi khuẩn E. tarda được tìm thấy ở các loài cá trê giống E. ictaluri được phân lập từ cá tra, cá ba sa, cá nheo giống và loài cá thịt.
Phòng bệnh nhiễm khuẩn huyết do Edwardsiella trên cá nước ngọt
Để ngăn chặn mầm bệnh xâm nhập và lây lan vào hệ thống nuôi cá trên địa bàn, bà con cần có ao lắng và khử trùng nước trước khi bơm nước vào ao nuôi. Thực hiện cải tạo ao nuôi theo đúng quy trình. Chọn những con giống khỏe mạnh, không bị nhiễm bệnh.
Các dụng cụ thường dùng như mùng, vợt, rổ, ống dây. Tất cả phải được khử trùng bằng clo với liều lượng 10-15 g / m3 trong 30 phút. Sau đó, rửa sạch bằng nước và lau khô sau khi sử dụng. Đảm bảo môi trường nước ao nuôi phải sạch. Định kỳ 10-15 ngày xử lý nước bằng CaCO3 với liều lượng 2-3 kg / 100 m2 xung quanh ao. Đồng thời, kết hợp với các loại thuốc sát trùng như BKC 800, POVIDINE 9000 và VIPRIO STOP để diệt vi khuẩn, vi rút.
Trong quá trình canh tác, hạn chế các hiện tượng gây stress cho cá như thay đổi nhiệt độ và oxy hòa tan. Khi đánh bắt nên vận chuyển nhẹ nhàng để tránh làm cá bị trầy xước.
Thức ăn nên nấu chín hoặc ăn dạng viên. Khi nuôi cá lồng bè, bà con có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả như treo túi vôi. Vì vôi có tác dụng khử trùng và tăng độ kiềm cho ao nuôi. Thường thì mỗi tháng treo một lần. Nhưng khi bệnh xuất hiện có thể treo 2 tuần một lần, liều lượng khoảng 2 kg CaO / 10 m3. Vị trí treo túi vôi phù hợp là ở khu vực đầu vào và thượng nguồn của dòng nước chảy. Ngoài ra, bà con nên bổ sung vitamin C vào thức ăn trước mùa bệnh.
Trị bệnh
Khi phát hiện trong ao có dịch bệnh phải vớt cá chết càng sớm càng tốt. Bà con không tùy tiện vứt xuống sông, xuống đất mà phải chôn vào hố cách ly. Đồng thời, thực hiện bón vôi bột để khử trùng. Các bệnh do vi khuẩn Edwardsiella gây ra rất nhạy cảm với florfenicol hoặc doxycycline. Khi cá bị bệnh, hãy làm theo các bước sau.
Bước 1: Khử trùng nguồn nước ao nuôi. Rửa sạch BIO BKC FOR FISH (1 lít / 2.000 mét khối) hoặc POVIDINE 9000 (1 lít / 5.000 mét khối) trong ao. Sau đó bật máy sục khí để trộn đều thuốc trong toàn bộ ao. Điều trị 5 ngày một lần.
Bước 2: Trộn 50% thức ăn BIO FLOR cho cá (1 g / 50 kg thể trọng) và 10% thức ăn Bio DOXY cho cá (1 g / 2 kg thể trọng). Bà con cho cá ăn liên tục trong 7 ngày. Ngoài ra, bổ sung C FEED có thể tăng sức đề kháng cho cá 3-5 g / 1 kg thức ăn. Đồng thời, có thể ăn liên tục trong 5 ngày để đảm bảo phòng bệnh.
Bước 3: Sau khi cá ổn định, NB 25 hoặc HAN-SUBTYL (1kg / 5.000-7.000 m3) được sử dụng để tạo ra quần thể vi sinh vật và ổn định chất lượng nước.
Nguồn: Thuoctrangtrai.com